PHÂN BIỆT TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN (ĐIỀU 174 BLHS) VÀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN (ĐIỀU 175 BLHS).

Thời gian hiện nay, với sự phát triển của khoa học công nghệ và xã hội, tình trạng người dân bị lừa đảo, chiếm đoạt tiền, tài sản xảy ra thường xuyên và ngày càng trầm trọng. Tuy nhiên vẫn còn tình trạng nhiều người dân không hiểu và phân biệt rõ được 2 tội phạm phổ biến liên quan đến những sự việc trên là Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại điều 174 Bộ luật hình sự 2015 (BLHS) và Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại điều 175 BLHS.
 Điều 174 mô tả Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau: “1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”

Trong khi đó, Điều 175 mô tả Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản: 1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;

b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

Bài viết sau đây sẽ phân tích rõ hơn về sự khác nhau giữa 02 tội phạm này.

– Về thời điểm người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản:

Ở tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, người phạm tội đã có ý định chiếm đoạt tài sản rồi sau đó mới thực hiện thủ đoạn gian dối nhằm thực hiện hóa ý định đấy. Thủ đoạn gian dối bao giờ cũng phải có trước việc giao tài sản. Ví dụ người phạm tội đánh bạc, hết tiền, thấy bạn mình có xe máy nên đã nảy sinh ý định mượn và bán xe, sau đó đã thực hiện hành vi này.

Ở tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, sau khi có giao dịch hợp pháp của hai bên, người phạm tội mới có ý định chiếm đoạt tài sản. Hay nói cách khác sau khi có được tài sản người phạm tội mới có ý định chiếm đoạt tài sản. Cùng ví dụ trên, người phạm tôi ban đầu chỉ mượn xe máy một thời gian để dùng trong công việc, sinh hoạt nhưng khi hết tiền thì lại bán xe máy đi để lấy tiền chi tiêu, hành vi này lại được xác định là lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

– Về hành vi phạm tội

Ở tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản. Cụ thể là người phạm tội đưa ra thông tin giả nhưng làm cho người khác tin đó là sự thật và tự nguyện giao tài sản cho người phạm tội. Việc đưa ra thông tin giả có thể bằng nhiều cách khác nhau như lời nói, bằng chữ viết, bằng hành động, bằng nhiều hình thức khác như giả vờ vay, mượn, thuê để chiếm đoạt tài sản. Ở tội danh này, người có tài sản bị người phạm tội lừa dối nên mới giao tài sản cho người đó.

Ở tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản: Người phạm tội có hành vi vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn hoặc đến thời hạn mà không trả dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả hoặc sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp để chiếm đoạt tài sản. Ở tội này, hành vi dùng thủ đoạn gian dối chỉ là một trong những cách mà người phạm tội có thể dùng để thực hiện tội phạm.

– Về việc sử dụng thủ đoạn gian dối

Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hành vi gian dối thể hiện ở việc đưa ra thông tin sai sự thật dưới nhiều hình thức khác nhau, khiến người bị hại tin tưởng và tự nguyện giao tài sản. Thủ đoạn gian dối luôn xảy ra trước hoặc đồng thời với việc nhận tài sản và là điều kiện cần để người phạm tội thực hiện hành vi chiếm đoạt. Chính sự gian dối này là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc tài sản được chuyển giao từ người quản lý sang người phạm tội.

Ngược lại, ở tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, hành vi gian dối (nếu có) chỉ phát sinh sau khi người phạm tội đã nhận được tài sản một cách hợp pháp thông qua hợp đồng vay, mượn, thuê hoặc giao dịch khác. Thủ đoạn gian dối thường được sử dụng nhằm che giấu việc không trả lại tài sản hoặc không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết. Người phạm tội có thể viện lý do như tài sản bị mất, bị đánh tráo hoặc cố tình giảm giá trị tài sản. So với tội lừa đảo, yếu tố gian dối trong tội lạm dụng tín nhiệm chỉ xuất hiện sau khi việc nhận tài sản đã hoàn tất.

– Về thời điểm hoàn thành tội phạm

Cả tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đều được coi là hoàn thành khi người phạm tội đã thực sự chiếm đoạt được tài sản. Điểm khác biệt quan trọng nằm ở thời điểm phát sinh ý định chiếm đoạt. Ở tội lừa đảo, người phạm tội đã có ý đồ chiếm đoạt ngay từ trước, sau đó mới dùng thủ đoạn gian dối để khiến người bị hại giao tài sản. Do đó, thời điểm họ nhận được tài sản cũng chính là thời điểm tội phạm hoàn thành. Trong khi đó, ở tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, việc nhận tài sản ban đầu là ngay tình, hợp pháp. Chỉ sau khi đã có tài sản trong tay, người phạm tội mới nảy sinh ý định chiếm đoạt và thực hiện các hành vi như bỏ trốn hoặc gian dối nhằm không trả lại tài sản. Vì vậy, tội lạm dụng tín nhiệm chỉ được coi là hoàn thành khi người phạm tội vi phạm nghĩa vụ đã cam kết và có hành vi cố tình chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu.

– Về trị giá tài sản bị chiếm đoạt

Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, trị giá tài sản từ 4.000.000 trở lên đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định ở BLHS thì mới phạm tội. Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, trị giá tài sản bị chiếm đoạt từ 2.000.000 đồng trở lên hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp theo quy định thì phạm tội. Vậy có thể nhận thấy nhà làm luật đã cho thấy việc xác định tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội phạm có mức độ nguy hiểm cao hơn.

Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn của Luật Vì Chân Lý Themis gửi tới quý khách hàng. Mong rằng nội dung trên sẽ giúp ích được cho quý khách hàng. Nếu quý khách hàng còn vướng mắc cần giải đáp vui lòng liên hệ cho Luật Vì Chân Lý Themis theo thông tin dưới đây.

-TA-

MỌI THẮC MẮC KHÁCH HÀNG VUI LÒNG LIÊN HỆ TỚI

FB: LUATSUTHANHDAT

ZALO: 03.2518.2518

CS1: PHÒNG 201, SỐ 170 TRẦN DUY HƯNG, P.TRUNG HOÀ, Q.CẦU GIẤY, TP HÀ NỘI

CS2: PHÒNG 1936, TÒA HH4C, KĐT LINH ĐÀM, NGUYỄN HỮU THỌ, HOÀNG MAI, HÀ NỘI


Gửi yêu cầu tới chúng tôi
Tên khách hàng
Địa chỉ
Điện thoại
Email
Nội dung yêu cầu
Security Code*
    

Các thông tin khác

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10  ... 
Tìm kiếm