Vụ án “Tranh chấp di sản thừa kế với đương sự đang ở nước ngoài” Phần II (Tiếp theo)

 

 

         LÝ LUẬN PHÁP LÝ ĐẾN THỰC TIỄN XÉT XỬ!

 

     Vụ án “Tranh chấp di sản thừa kế với đương sự đang ở nước ngoài

PHẦN II. Quá trình nghiên cứu, đánh giá vụ việc của khách hàng.

III. Nhận định quy trình cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

mang tên cụ Vũ Thị U năm 2003.

         Năm 1993, sau khi cụ P chết không để lại di chúc, cụ U cùng các con tiếp tục quản lý, sử dụng thửa đất này. Do căn nhà cũ xuống cấp nên cụ U tháo dỡ và xây dựng lại căn nhà 5 tầng trên toàn bộ phần diện tích 40m2 đất vào năm 2002. Ngày 15/06/2003, UBND thành phố Hạ Long cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất trên cho cụ Vũ Thị U.

         Căn cứ theo lời khai của các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án, thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cụ U, lúc này cụ P đã chết nhưng khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cụ U các con của hai cụ hoàn toàn không biết và cũng chưa được làm bất kỳ một văn bản thống nhất phân chia di sản thừa kế của cụ P để lại. Việc định đoạt di sản của cụ P đều không được các con đồng ý.

          Theo hồ sơ lưu trữ UBND thành phố Hạ Long, hồ sơ lưu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cụ U năm 2003, có đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của cụ U đề ngày 23/03/2003, cụ P là chồng của cụ U chết năm 1993, khi chết không để lại di chúc và không có giấy tờ chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất kèm theo. Biên bản kiểm tra thực địa ngày 23/03/2003, do phòng địa chính thành phố và UBND phường lập thì cụ U là đại diện chủ sở hữu. Ngoài ra, không còn hồ sơ lưu nào khác liên quan đến hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên cụ U.

          Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 3, Khoản 1 Điều 22 và Điều 23 Nghị định 17/1999/NĐ- CP quy định:

            "Điều 3: Giấy tờ để thực hiện quyền của người sử dụng đất

2. Người đang sử dụng đất có một trong các giấy tờ quy định sau đây thì làm thủ tục để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và được thực hiện các quyền theo quy định của Nghị định này:

đ) Giấy tờ về thừa kế nhà đất; tặng, cho nhà đất được ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận và đất đó không có tranh chấp;

Điều 22. Người được để thừa kế quyền sử dụng đất

1. Những người sau đây được để thừa kế quyền sử dụng đất:

a) Cá nhân sử dụng đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, trồng cây lâu năm, nuôi trồng thuỷ sản, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở, đất chuyên dùng;

Điều 23. Quy định: Trình tự thực hiện việc thừa kế quyền sử dụng đất

1. Người được thừa kế quyền sử dụng đất nộp bản di chúc hoặc biên bản phân chia thừa kế hoặc bản án, quyết định giải quyết tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật kèm theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất đó.

Trường hợp người được thừa kế quyền sử dụng đất là người duy nhất được hưởng thừa kế thì mang giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được thừa kế đến ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn kê khai đăng ký quyền sử dụng đất.

2. Trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày nhận được các giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này, ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn thẩm tra hồ sơ, xác nhận quyền thừa kế quyền sử dụng đất và đăng ký vào sổ địa chính.”

          Như vậy, trong các giấy tờ làm căn cứ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất nêu trên của cụ P và cụ U sau khi cụ P chết phải có Biên bản phân chia thừa kế của cụ P theo quy định pháp luật. Trường hợp, các đồng thừa kế không lập Biên bản phân chia thừa kế của cụ P tại cơ quan Nhà nước phải cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các đồng thừa kế của cụ P theo quy định pháp luật.

          Từ những tài liệu chứng cứ trong vụ án, Cơ quan Nhà nước cấp không đúng trình tự thủ tục và cấp sai đối tượng sử dụng đất và xác định sai nguồn gốc đất. Cụ thể:

          Thời điểm cụ P và cụ U kết hôn là năm 1974 áp dụng Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 có quy định “Vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới.” Điều 17 Luật Hôn nhân gia đình 1986 thì:“Khi một bên chết trước, nếu cần chia tài sản chung của vợ chồng thì chia đôi. Phần tài sản của người chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế. Vợ, chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau”

          Thời điểm cụ P chết năm 1993, không có di chúc để lại nên phần tài sản của cụ P phải thực hiện phân chia di sản thừa kế theo pháp luật. Căn cứ Điểm a, khoản 1 Điều 25 và Điều 26 của Pháp lệnh thừa kế năm 1990 quy định hàng thừa kế thứ nhất của cụ P bao gồm: Cụ U và 05 người con của hai cụ. Tuy nhiên, năm 2003 quá trình làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cụ U chỉ có đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với toàn bộ diện tích đất 40m2 nhưng chưa có ý kiến của những người thừa kế khác, tại hồ sơ lưu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cụ U năm 2003, UBND thành phố Hạ Long ngoài đơn xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của cụ U, không có di chúc và không có giấy tờ chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất kèm theo nào khác.

Căn cứ  vào Điểm d Khoản 2 Điều 106 Luật đất đai năm 2013 quy định về các trường hợp Nhà nước thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất:

"d) Giấy chứng nhận đã cấp không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng sử dụng đất, không đúng diện tích đất, không đủ điều kiện được cấp, không đúng mục đích sử dụng đất hoặc thời hạn sử dụng đất hoặc nguồn gốc sử dụng đất..”.

          Do đó, chúng tôi nhận định việc UBND thành phố cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở gắn liền với đất tại thời điểm cấp năm 2003 cho cụ U là chưa đúng quy định. Căn cứ Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, có căn cứ để hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND thành phố Hạ Long cấp năm 2003 mang tên của cụ U.

Ở những phần tiếp theo chúng tôi sẽ tiếp tục đánh giá Hợp đồng tặng cho giữa cụ U cho ông H và đăng biến động sang tên cho ông H.

-HL-

MỌI THẮC MẮC KHÁCH HÀNG VUI LÒNG LIÊN HỆ TỚI

HOTLINE: 19002120

FB: LUATSUTHANHDAT

ZALO : 03.2518.2518

TRỤ SỞ: PHÒNG 1936, TÒA HH4C, KHU ĐÔ THỊ LINH ĐÀM, NGUYỄN HỮU THỌ, HOÀNG MAI, HÀ NỘI.

CS2: CHÙA HÀ, VĨNH YÊN, VĨNH PHÚC

 

Gửi yêu cầu tới chúng tôi
Tên khách hàng
Địa chỉ
Điện thoại
Email
Nội dung yêu cầu
Security Code*
    

Các thông tin khác

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10  ... 
Tìm kiếm